Tìm Phật nơi đâu
Luôn giữ chánh niệm, tỉnh giác, giữ sự định tĩnh sáng trong để tạo cơ hội cho trí tuệ khởi sáng, Phật tính hiển lộ. Bởi ta biết không cần phải tìm Phật nơi đâu, Phật có ngay trong tâm mỗi người.
Là người con đất Việt, ai cũng không khỏi tự hào về 03 lần chiến thắng quân Nguyên Mông của Đại Việt dưới thời trị vì của nhà Trần. Để chiến thắng một đế quốc hùng cường ấy, đế quốc đã từng đánh đâu thắng đấy khắp các châu lục Á, Âu, hẳn nhiên không phải là một may mắn, vì Đại Việt đã chiến thắng tới 3 lần, chắc chắn phải có một sức mạnh nào đó không chỉ nằm ở sức quân, vũ khí, sức mạnh quân sự thuần túy… Vì ở thời đó nói về sức mạnh quân sự, kỹ năng chiến đấu chắc khó có quốc gia nào có thể so sánh với Nguyên Mông. Vậy sức mạnh nào để Đại Việt có thể đương đầu với đế quốc to lớn như vậy? Cùng nhìn lại những điểm đặc biệt của triều đại nhà Trần để có thể thấy được sức mạnh bí mật ấy.
Điểm đặc biệt đầu tiên, các vị Vua thời Trần đều có truyền thống tu học và thấu đạo rất cao. Sau khi làm trong trách nhiệm trị vì đất nước, các ngài truyền ngôi cho thế hệ tiếp theo từ rất sớm, ngay khi thái tử đủ trưởng thành (thường 18 ~20 tuổi) và sau đó các ngài chuyên tâm vào tu tập, vừa song song hỗ trợ việc nước cùng Vua. Ở đây chúng ta thấy được những điều sau: Các ngài đều không tham quyền cố vị. Việc chuẩn bị, đào tạo cho thế hệ sau được thực hiện từ rất sớm để vị Vua mới có thể học hỏi và tiếp nhận từ thế hệ trước ngay trên cương vị đứng đầu đất nước. Và điểm đặc biệt chính là việc tu tập và thấm nhuần đạo Phật của các vị Vua Trần, để Lịch sử Việt Nam có dấu ấn của một vị Vua-Phật: Phật Hoàng Trần Nhân Tông.
Tất nhiên để có Phật hoàng Trần Nhân Tông, sẽ là thiếu sót nếu không nhắc đến truyền thống tu tập đã được hình thành từ vị Vua Trần đầu tiên là Thần Thái Tông. Chính nhờ truyền thống này đã tạo điều kiện cho đạo Phật được nở hoa dưới thời Trần, đỉnh cao là dấu mốc Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử được hình thành dưới thời Phật Hoàng Trần Nhân Tông, do chính ngài là vị tổ đầu tiên của Thiền phái này. Chính nhờ có sự tu tập và thấu đạo ấy, mà các vị Vua thời Trần mới có khả năng chinh phục lòng dân, tạo lên khối đại đoàn kết toàn dân tộc – một sức mạnh vô biên để có thể đương đầu và chiến thắng 3 lần quân Nguyên Mông.
Trần Thái Tông – Trần Cảnh là vị Vua đầu tiên của thời Trần, ông được Trần Thủ Độ đưa vào cung và kết thân với Nữ Hoàng Đế duy nhất của lịch sử Việt Nam – Lý Chiêu Hoàng (do vua Lý Huệ Tông không có con trai, và lại mắc bệnh điên mà phải nhường ngôi cho con gái). Khi Trần Cảnh mới là cậu bé 8 tuổi đã phải trở thành một quân cờ trong ván cờ chuyển giao quyền lực giữa thời Lý – Trần. Hơn nữa để đảm bảo sự vững chắc cho một triều đại non trẻ, Trần Thủ Độ đã ép Trần Cảnh phải lấy Thuận Thiên - vợ của anh trai mình là Trần Liễu do Lý Chiêu Hoàng mãi chưa có con, trong khi đó Thuận Thiên đã đang mang thai được 3 tháng. Sự việc trái với luân thường đạo lý này đã khiến cho Trần Thái Tông đã không thể chấp nhận được nữa. Ngài quyết định trong đêm đó, từ bỏ cung điện, chạy lên núi Yên Tử tìm đường đi tu, rời xa mọi thế sự nhiễu nhương. Ngài đã phải nhìn ra được sự khốc liệt, khổ sở của việc tham quyền lực, tranh giành đấu đá bất chấp tất cả thì mới có quyết định và hành động như vậy. Trần Thái Tông lên thẳng đỉnh núi Yên Tử để tham kiến vị đại sư Trúc Lâm và bày tỏ ý định đi tu của mình. Ngài nói: “Trẫm còn thơ ấu, đã sớm mất mẹ cha, chơ vơ đứng trên sĩ dân, không có nơi nào nương tựa. Lại nghĩ rằng sự nghiệp đế vương đời trước hưng phế bất thường, cho nên trẫm mới vào đây, chỉ muốn cầu thành Phật, chứ chẳng muốn tìm gì khác”. Thầy đáp: “Trong núi vốn không có Phật. Phật ở trong tâm ta. Nếu tâm lắng và trí tuệ xuất hiện, đó chính là Phật. Nếu bệ hạ giác ngộ được tâm ấy thì tức khắc thành Phật ngay tại chỗ, không cần đi tìm cực khổ ở bên ngoài”.
Tất nhiên là Trần Thủ Độ sẽ không cho phép như vậy, ông đã cùng với quân triều đình đi đến để đón bằng được Trần Thái Tông về, khi Trần Thái Tông không muốn về mà muốn ở Yên Tử để tu hành, thì Trần Thủ Độ yêu cầu lập cung điện trên núi Yên Tử. Thấy vậy vị sư phụ Trúc Lâm bèn lên tiếng : “Xin bệ hạ hãy gấp về kinh sư, chớ để làm hại đến núi rừng của lão tăng”. Tuy nhiên vị sư còn tiếp tục dặn dò Trần Thái Tông : “Phàm làm đấng nhân quân, thì phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, và tâm thiên hạ làm tâm của mình. Nay thiên hạ muốn đón bệ hạ, không về sao được? Tuy nhiên sự nghiên cứu nội điển xin bệ hạ đừng phút nào quên”. Nhận được yếu chỉ này, Trần Thái Tông tuy chấp thuận về cung nhưng đồng thời ngài cũng không quên tu tập. Và ngài cũng thấy rằng chẳng cần tìm Phật ở đâu bên ngoài, nơi núi non hay chùa tháp, mà Phật có ngay trong tâm mình, chỉ cần nhìn để tâm bình lắng, trí tuệ xuất hiện sẽ thấy Phật ngay tại đó, ngay cả khi nơi trốn quan trường. Việc tu học của người được áp dụng trong mỗi sinh hoạt, công việc hàng ngày. Nhờ thế mà Trần Thái Tông mới có nhiều sách lược trị vì thuận lòng dân và dung hòa được nhiều hiềm khích không đáng có. Một minh chứng cụ thể là việc xử lý từ bi của ngài trong vụ nổi loạn của Trần Liễu. khi Trần Thủ Độ rút gươm toan chém Trần Liễu, Trần Thái Tông đã lấy thân mình ra bảo vệ cho Trần Liễu, sau đó cảm hóa cho người anh trai và không những không truy cứu trừng phạt mà vẫn tiếp tục trọng dụng Trần Liễu và các người con của ông – trong đó có vị anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo. Chỉ qua sự việc này, ta đã thấy được phần nào sự thấu đạt lòng người và tấm lòng từ bi của Trần Thái Tông. Bới vậy nên không phải tự nhiên một nhà nước non trẻ đã có thể chiến thắng được đại quân Nguyên Mông hùng mạnh.
Về sự nghiệp tụ học của mình, Trần Thái Tông có rất nhiều các tác phần thiền tập đáng giá để cho ông tự hành trì và cũng là truyền lại cho thể hệ sau. Một số tác phẩm nổi tiếng như: Thiền Tông Chỉ Nam; Kim Cương Tam Muội Kinh Chú Giải; Lục Thời Sám Hối Khoa Nghi; Bình Ðẳng Lễ Sám Văn; Khóa Hư Lục; Thi Tập… Trong đó, “Lục thời sám hối khoa nghi” thể hiện rất rõ công phu tu tập của ông. Có thể khi đã trải qua nhiều khổ đau, nhiều cảnh ngang trái nên người nhận ra được những sai lầm đến từ 6 căn, đến từ sự tham đắm mê lầm bởi ngũ dục, khiến cho người ta khổ đau và trôi lăn trong luân hồi:
Lưỡi vướng vị ngon, tai vướng tiếng
Mắt theo hình sắc, mũi theo hương
Lang thang làm khách phong trần mãi
Ngày hết quê xa vạn dặm trường.
Rõ ràng, để có thể vừa trị nước, vừa bận trăm công nghìn việc như thế mà vẫn có thể thực hành tu tập hàng ngày như Trần Thái Tông quả thực không phải dễ dàng, chúng ta đang hiểu rất rõ việc này. Ngài phải nhận diện rõ sự khổ đau, sự tham đắm trầm luân và phải luôn nhắc nhở mình thì mới không để những cảnh trần cuốn đi. Vì thế Lục thời sám hối khoa nghi được ra đời, để ngài vừa để sám hối những lỗi lầm của mình đã gây ra từ vô thủy, vừa để nhắc nhở mình không được quên việc đang “lang thang làm khách phong trần mãi ấy”. Nó là những bước đầu tiên để ta quay về, để thấy việc gì là quan trọng nhất khi ta được sinh ra với kiếp người này. Chúng ta, những người cư sĩ tại gia cũng không được quên những điều này, để luôn tự nhắc nhở mình nghiêm túc trên con đường tu tập. Luôn giữ chánh niệm, tỉnh giác, giữ sự định tĩnh sáng trong để tạo cơ hội cho trí tuệ khởi sáng, Phật tính hiển lộ. Bởi ta biết không cần phải tìm Phật nơi đâu, Phật có ngay trong tâm mỗi người.
Nguyễn Đức Nhật, Hà Nội, tháng 11/2023